Scholar Hub/Chủ đề/#quyền hiến định/
Quyền hiến định, hay quyền lập hiến, là các quyền căn bản và không thể xâm phạm được ghi trong hiến pháp của một quốc gia, đảm bảo và bảo vệ lợi ích của con người. Nó bao gồm quyền tự do ngôn luận, tôn giáo, riêng tư, và quyền được xét xử công bằng. Lịch sử phát triển quyền hiến định bắt đầu từ Magna Carta năm 1215 và được củng cố qua các cuộc cách mạng. Quyền hiến định rất quan trọng trong bảo vệ các quyền dân chủ và tự do, đối diện với thách thức về giải thích và thực thi trong bối cảnh xã hội và chính trị biến đổi. Việc bảo vệ chúng là cốt lõi cho một xã hội tự do và phát triển.
Quyền Hiến Định: Tổng Quan và Tầm Quan Trọng
Quyền hiến định, còn được gọi là quyền lập hiến, là một khái niệm cốt lõi của nền chính trị và pháp luật, đại diện cho những quyền căn bản và bất khả xâm phạm được ghi nhận trong hiến pháp của một quốc gia. Đây là những quyền được bảo đảm và bảo vệ bởi hệ thống pháp luật, đóng vai trò nền tảng trong việc bảo vệ lợi ích cơ bản của con người và điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước.
Khái Niệm Quyền Hiến Định
Khái niệm quyền hiến định bắt nguồn từ sự công nhận về tầm quan trọng của việc bảo vệ những quyền lợi cơ bản của các cá nhân trong xã hội. Trong bối cảnh pháp lý, quyền hiến định thường bao gồm những quyền như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tôn giáo, quyền riêng tư, quyền biểu tình, và quyền được xét xử công bằng. Những quyền này được xác định rõ ràng trong hiến pháp và không thể bị thay đổi dễ dàng bởi các hành động của chính phủ mà không vi phạm các quy định pháp luật hiện hành.
Lịch Sử Phát Triển của Quyền Hiến Định
Lịch sử phát triển của quyền hiến định gắn liền với sự hình thành và phát triển của các hệ thống pháp luật hiện đại. Một bước ngoặt quan trọng là sự ra đời của Magna Carta vào năm 1215 tại Anh, đánh dấu sự khởi đầu của quá trình hạn chế quyền lực tuyệt đối của vua chúa và bảo vệ quyền lợi của người dân. Các cuộc cách mạng, như Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của quyền hiến định qua việc công bố các văn bản như Tuyên ngôn Độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền.
Tầm Quan Trọng của Quyền Hiến Định
Quyền hiến định đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một khuôn khổ pháp lý ổn định và minh bạch, nơi mà quyền lợi của các cá nhân được bảo vệ một cách hiệu quả chống lại sự lạm dụng quyền lực của nhà nước. Nó bảo vệ các giá trị dân chủ, công lý, và quyền tự do, là nền tảng để xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh. Ngoài ra, quyền hiến định còn khuyến khích sự tham gia tích cực của công dân vào các hoạt động chính trị và xã hội, góp phần xây dựng một nền văn hóa chính trị và pháp lý tiến bộ.
Thách Thức Trong Việc Bảo Vệ Quyền Hiến Định
Mặc dù có vai trò quan trọng, việc bảo vệ quyền hiến định không phải lúc nào cũng dễ dàng. Một số thách thức lớn bao gồm việc giải thích và áp dụng các quyền này trong bối cảnh xã hội và chính trị luôn thay đổi, xung đột giữa lợi ích công và quyền cá nhân, cũng như sự hạn chế của hệ thống tư pháp trong việc thực thi quyền hiến định. Để đối phó với những thách thức này, cần có sự hợp tác giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, và cộng đồng quốc tế.
Kết Luận
Quyền hiến định là trụ cột không thể thiếu của một nền tự do và dân chủ. Việc bảo vệ và tôn trọng các quyền này không chỉ đảm bảo sự công bằng và ổn định trong xã hội, mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của quốc gia. Chính vì thế, việc hiểu rõ và duy trì các quyền hiến định cần được quan tâm và đầu tư từ mọi cấp độ trong xã hội.
Nghiên cứu về Bạo lực Gia đình trong những năm 1990: Phân biệt các loại hình Dịch bởi AI Journal of Marriage and Family - Tập 62 Số 4 - Trang 948-963 - 2000
Bài tổng quan về tài liệu trong lĩnh vực bạo lực gia đình cho thấy rằng hai chủ đề chính của thập kỷ 1990 mang lại những hướng đi hứa hẹn nhất cho tương lai. Chủ đề đầu tiên là tầm quan trọng của việc phân biệt giữa các loại hình hoặc bối cảnh bạo lực. Một số phân biệt này là cốt lõi cho sự hiểu biết lý thuyết và thực tiễn về bản chất của bạo lực giữa các bạn đời, trong khi những phân biệt khác cung cấp các bối cảnh quan trọng để phát triển các lý thuyết nhạy cảm và toàn diện hơn, và một số khác có thể chỉ đơn giản là khiến chúng ta đặt câu hỏi về xu hướng tổng quát hóa một cách thiếu cẩn trọng từ bối cảnh này sang bối cảnh khác. Chủ đề thứ hai là các vấn đề kiểm soát, mặc dù đáng chú ý nhất trong tài liệu của nữ quyền tập trung vào nam giới sử dụng bạo lực để kiểm soát "những" phụ nữ của họ, nhưng cũng xuất hiện trong các bối cảnh khác, đòi hỏi phân tích tổng quát hơn về sự tương tác của bạo lực, quyền lực và kiểm soát trong các mối quan hệ. Ngoài hai chủ đề chung này, bài tổng quan của chúng tôi còn đề cập đến tài liệu về cách ứng phó với bạo lực, các tác động đối với nạn nhân và trẻ em của họ, cũng như các tác động xã hội của bạo lực giữa các bạn đời.
Cô lang thang trên đường phố, nhìn vào các cửa hiệu. Không ai biết cô ở đây. Không ai biết ông ấy đã làm gì khi cửa đóng. Không ai biết.
(Brant, 1996, trang 281)
#bạo lực gia đình #bạo lực giữa các bạn đời #kiểm soát #lý thuyết nữ quyền #ứng phó với bạo lực
MÔ HÌNH QUẢN LÝ QUYỀN RIÊNG TƯ TRONG THỊ TRƯỜNG DỮ LIỆU VÀ MỘT VÀI GỢI Ý HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAMTrong bối cảnh của sự phát triển vượt bậc của hệ thống dữ liệu, dữ liệu lớn đã đặt ra yêu cầu phải có các giải pháp quản lý hiệu quả. Một trong những yêu cầu cấp bách được đặt ra là làm thế nào để hạn chế sự xâm phạm quyền riêng tư trong hoạt động quản lý dữ liệu. Bài viết phân tích các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền riêng tư trong thị trường dữ liệu, lý thuyết mô hình quản lý quyền riêng tư. Bên cạnh đó, bài viết còn làm rõ tính cấp thiết của việc bảo vệ quyền riêng tư trong bối cảnh của thị trường dữ liệu ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số đề xuất các nguyên tắc quản lý dữ liệu cũng như kiến nghị về việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Hoàn thiện chế định thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam (Kỳ 1)Bài viết làm rõ những vấn đề lý luận về chế định thực hành quyền công tố (THQCT), quá trình hình thành, phát triển của chế định này trong tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam từ năm 1945 đến nay; đánh giá những hạn chế của chế định thực hành quyền công tố trong TTHS hiện hành; đồng thời đưa ra những cơ sở, định hướng và kiến nghị hoàn thiện chế định này trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
#Thực hành quyền công tố #tố tụng hình sự #Bộ luật tố tụng hình sự #cải cách tư pháp.
Đánh giá việc thực hiện chuyển nhượng và thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng NaiNghiên cứu được tiến hành tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai với mục tiêu chính là làm rõ thực trạng việc thực hiện chuyển nhượng và thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân từ sau khi Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực. Bài báo đã sử dụng phương pháp thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp để thực hiện các nội dung nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố Biên Hòa diễn ra khá sôi động với 51.348 hồ sơ, trong đó chủ yếu thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở (chiếm tỷ lệ 67,29%). Theo kết quả điều tra, có 4 nguyên nhân chính dẫn đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa bàn nghiên cứu đó là lấy tiền để xây dựng, đầu cơ đất, lấy tiền để để đầu tư sản xuất, kinh doanh và chuyển đến nơi ở mới. Trong giai đoạn 2014 - 2017 có 39.168 hồ sơ thế chấp quyền sử dụng đất. Đa số các trường hợp thế chấp có thời hạn dưới 3 năm (chiếm 81,3% số hồ sơ). Kết quả điều tra cho thấy, lý do chính để thế chấp quyền sử dụng đất là vay vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh (chiếm 74,53%). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, người dân chủ yếu đến thế chấp tại các ngân hàng và các cơ sở tín dụng (chiếm tỷ lệ 90,6%). Theo ý kiến của người dân, cần rút ngắn thời gian hoàn thành các thủ tục, giảm phí và lệ phí liên quan đến việc thực hiện quyền sử dụng đất.
ABSTRACT
The research was conducted in Bien Hoa city to clarify the real situation of implementing transfer and mortgage of land use rights of households and individuals after the 2013 Land Law. The two research methods were used including primary and secondary data collection. The results show that the mortgage of land use rights was well implemented with 51,348 dossiers, in which the transfer of residential land use is popular (67.29%). According to the survey results, there are 4 main following reasons leading to the transfer of land use rights in the study area: need for money for housing construction, land speculation, need for money for investment in production and business and moving to new place. There were 39,148 land mortgage dossiers in the period of 2014 – 2017, most of the mortgages had a term of less than 3 years (81.3%). The main reason of mortgage land use rights was to borrow money for investment in production and business (74.53%), mortgage procedures were mainly done at banks and credit offices (90.6%). The results of the household survey also show that the time for completing procedures, fees and charges for implementing the land use rights should be reduced.
#Transfer #households and individuals #land use right #mortgage #Bien Hoa city #Chuyển nhượng #hộ gia đình và cá nhân #quyền sử dụng đất #thế chấp #thành phố Biên Hòa
GIỚI HẠN QUYỀN HIẾN ĐỊNH TRONG BỐI CẢNH COVID-19 TẠI VIỆT NAMQuyền hiến định là những quyền được Hiến pháp quốc gia ghi nhận và bảo vệ, phản ánh nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền đối với các cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang gây những ảnh hưởng nặng nề đến thế giới và Việt Nam, không chỉ gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của mỗi cá nhân mà còn đe doạ đến nền kinh tế, chính trị và ổn định xã hội của các quốc gia. Mỗi quốc gia đã có những biện pháp ứng phó với đại dịch khác nhau nhưng những biện pháp này đồng thời làm xuất hiện lo ngại về việc ảnh hưởng đến những quyền hiến định của các thành viên trong xã hội. Vì vậy, trong nội dung bài viết này tác giả tập trung phân tích làm rõ khái niệm về quyền hiến định, giới hạn quyền trên cơ sở đó đưa ra khái niệm “giới hạn quyền hiến định”; phân tích làm rõ thực tiễn giới hạn quyền hiến định tại Việt Nam trong bối cảnh Covid-19; từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý của vấn đề giới hạn quyền hiến định tại Viêt Nam.
#Giới hạn #quyền Hiến định #Covid-19 #Việt Nam.
HIẾN PHÁP VÀ LUẬT TƯ: KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ QUỐC GIA CHÂU ÂU VÀ GỢI MỞ CHO VIỆT NAMTạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam - Số 02(174) - Trang 87-100 - 2024
Mối quan hệ giữa luật tư và Hiến pháp ngày càng chặt chẽ, thể hiện rõ nét nhất qua xu hướng hiến pháp pháp hóa luật tư. Xu hướng này được hình thành và bén rễ ở châu Âu và dần phổ biến sang các khu vực khác. Bài viết phân tích thực tiễn hiến pháp hóa luật tư tại một số quốc gia châu Âu thông qua giới thiệu một số án lệ điển hình, từ đó đưa ra một số so sánh và gợi mở về mối quan hệ giữa Hiến pháp và luật tư tại Việt Nam.
#quyền hiến định #luật tư #hiệu lực chiều ngang; quyền nhân thân; hợp đồng
KẾT QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHUYỂN NHƯỢNG VÀ TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN TẠI HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM ĐỒNG: RESULTS OF IMPLEMENTATION FOR TRANSFER AND DONATION OF LAND USE RIGHTS OF THE HOUSEHOLDS AND INDIVIDUALS IN DUC TRONG DISTRICT, LAM DONG PROVINCENghiên cứu này được tiến hành tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng với mục tiêu chính là phân tích được thực trạng việc thực hiện chuyển nhượng và tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân giai đoạn 2014-2018. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện Đức Trọng trong giai đoạn 2014-2018 có 1.977 hồ sơ với tổng diện tích là 3.339.966,7 m2, trong đó đó đất ở có 1.078 hồ sơ (chiếm 54,5% tổng hồ sơ) và đất nông nghiệp có 899 hồ sơ (chiếm 45,5% tổng hồ sơ). Theo kết quả điều tra, có 2 nguyên nhân chính dẫn đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa bàn nghiên cứu đó là lấy tiền để đầu tư sản xuất, kinh doanh và xây dựng nhà. Trong giai đoạn này có 230 hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất. Đa số các trường hợp tặng cho đều thực hiện cho người thân trong gia đình (bố, mẹ, con, anh chị em ruột). Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người dân cho rằng các văn bản, chính sách pháp luật, văn bản hướng dẫn việc thực hiện chuyển nhượng và tặng cho QSDĐ là phù hợp, văn bản hướng dẫn dễ hiểu và hiểu được, thời gian giải quyết các thủ tục đúng hạn và nhanh, thái độ của cán bộ thụ lý hồ sơ là nhiệt tình và chuẩn mực. Theo ý kiến của người dân cần tiếp tục cải cách hành chính để thành phần hồ sơ không quá phức tạp và giảm phí và lệ phí liên quan đến việc thực hiện chuyển nhượng và tặng cho quyền sử dụng đất.
ABSTRACT
The research was conducted in Duc Trong district to evaluate the real situation of implementing transfer and donation of land use rights of households and individuals in the period of 2014-2018. The two research methods were used including primary and secondary data collection. The results showed that transfer of land use right was well- implemented with 1,977 dossiers with a total area of 3,339,966.7 m2, of which residential land had 1,078 dossiers and agricultural land was 899 dossiers. According to the survey results, there were two main following reasons leading to the transfer of land use rights in the study area including investment in production and business and need money for housing construction. There were 230 land donation dossiers in the period of 2014-2018, most of the donation were given to close relatives such as parents, children, and siblings. In addition to the positive points, the results of the household survey also indicated that dossier composition and fees and charges for implementing land use rights should be simplified and reduced.
#Chuyển nhượng #Hộ gia đình và cá nhân #Quyền sử dụng đất #Tặng cho #Transfer #Households and individuals #Land use right #Donation
Hoàn thiện chế định thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam (Kỳ 2)Bài viết làm rõ những vấn đề lý luận về chế định thực hành quyền công tố (THQCT), quá trình hình thành, phát triển của chế định này trong tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam từ năm 1945 đến nay; đánh giá những hạn chế của chế định thực hành quyền công tố trong TTHS hiện hành; đồng thời đưa ra những cơ sở, định hướng và kiến nghị hoàn thiện chế định này trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
#Thực hành quyền công tố #tố tụng hình sự #Bộ luật tố tụng hình sự #cải cách tư pháp.
Quyền tài phán quốc tế cho các vụ kiện phát sinh từ hợp đồng cấp phép; Địa điểm thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của chỉ thị về chậm thanh toán Dịch bởi AI Juristische Blätter - Tập 132 - Trang 253-255 - 2010
Các hợp đồng cấp phép không phải là hợp đồng dịch vụ theo nghĩa của Điều 5 khoản 1 điểm b của Quy chế Brussels II. Do đó, quyền tài phán cho các vụ kiện phát sinh từ đó cần được đánh giá theo Điều 5 khoản 1 điểm a của Quy chế Brussels II. Ngoài ra, các nguyên tắc phát sinh từ thực tiễn xét xử của Tòa án Công lý châu Âu đối với Điều 5 khoản 1 của Công ước Brussels cũng cần được áp dụng. Địa điểm thực hiện nghĩa vụ tương ứng là yếu tố quyết định trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ gây ra tranh chấp. Đối với hợp đồng cấp phép, việc thực hiện trách nhiệm chính theo nghĩa của Điều 4 khoản 2 Công ước Brussels sẽ do bên cấp phép đảm nhận, đặc biệt là khi không có nghĩa vụ khai thác được quy định trong hợp đồng. Trong trường hợp cấp phép cho chỉ một quốc gia, có thể xem xét việc thiết lập sự liên kết chặt chẽ hơn đến quốc gia đó và áp dụng luật của quốc gia đó theo Điều 4 khoản 5 của Công ước Brussels. Theo Điều 3 khoản 1 điểm a kết hợp với điểm c của Chỉ thị 2000/35/EG ("Chỉ thị về chậm thanh toán"), trong trường hợp có thời hạn thanh toán đã thỏa thuận, có một sự thay đổi so với tình huống pháp lý trước đó: Lãi suất sẽ được thanh toán ngay khi khoản tiền nợ không đến kịp thời tại bên chủ nợ; trước đó, điều này phụ thuộc vào thời điểm gửi đi. Tuy nhiên, điều này chỉ làm thay đổi thời điểm mà bên nợ phải thực hiện nghĩa vụ của mình; họ phải thực hiện họ kịp thời để đảm bảo rằng việc thanh toán sẽ diễn ra vào ngày cuối cùng của thời hạn theo thông thường. Bất kỳ quy định nào về nơi thực hiện nghĩa vụ, có thể dẫn đến sự vi phạm chỉ thị của Điều 905 Bộ luật Dân sự Áo cũng không được thiết lập. Địa điểm thực hiện nghĩa vụ tài chính vẫn được xác định theo Điều 905 Bộ luật Dân sự Áo. Điều này cũng áp dụng cho việc thực hiện Điều 5 khoản 1 điểm a của Quy chế Brussels II.